- Tên phổ quát : Keo lá tràm , tràm bông vàng , keo lưỡi liềm
- Tên khoa học : Acacia auriculiformis
- Họ thực vật : Đậu – fabaceae
- nguyên lai Nguồn gốc :
- Phân bổ ở Việt Nam : Rộng khắp
- Thân , tán chuyện , lá: Cây gỗ lớn , cao 25-30m , đường kính 60-80 cm. Phân cành thấp , tán chuyện rộng. Thân hình tròn , thẳng.Vỏ cây màu xám đen , nứt dọc , nhỏ , sâu 2-3 mm. Lá đơn nguyên , mọc cách , hình lưỡi hái , màu xanh lục , nhẵn bóng , đầu và gốc lá nhọn , có 6-8 gân hình cung song song.
- Hoa , quả , hạt: Hoa lưỡng tính mọc cụm hình bông đuôi sóc , ở kẽ lá , hoa màu vàng. Quả dẹt , mỏng dài 7-8 cm. Hạt màu đen , có rốn hạt khá dài màu vàng như màu của tràng hoa.
-
- Cây tràm có hoa màu vàng
- Tốc độ sinh trưởng: nhanh
- phù hợp với: cây ưa sáng , khí hậu nóng , khả năng chịu hạn tốt , chịu rét kém. Nhiệt độ làng nhàng 24 0 C. Đất có độ dày làng nhàng , khả năng thoát nước tốt , độ pH gần trung tính , hơi chua.
- Cây thường được dùng nhiều trong cải tạo đất sản xuất lâm nghiệp , trồng phủ xanh đất trống đồi trọc và cho nguyên liệu bột giấy. Tràm bông vàng cũng được trồng như là cây cảnh , cây lấy bóng râm và trồng trong các đồn điền để lấy gỗ. Gỗ của nó có khả năng dùng trong sản xuất giấy , đồ gỗ gia dụng và các công cụ.
Keo lá tràm có khả năng trồng được trên những vùng có điều kiện đất đai và khí hậu hà khắc. Sau 5- 6 năm trồng , có khả năng khai thác cây dùng làm nguyên liệu giấy. Với thời gian trồng lâu hơn cây có khả năng cho gỗ lớn làm nguyên liệu xây dựng , đồ mộc gia dụng , trang trí nội thất , đồ mỹ nghệ cao cấp.
Thường người ta gieo hạt và tạo cây con trước thời vụ trồng khoảng 2 , 5 – 3 tháng. Hạt keo lá tràm được ủ cho “nứt nanh” sau đó gieo vào bầu. Vỏ bầu là túi nilông có kích tấc 9 x 12 cm , có đáy hoặc không đáy. Nếu có đấy phải cắt 2 góc dưới hoặc đục 6 – 8 lỗ nhỏ xung quanh để thoát nước. Thành phần hỗn hợp trong bầu: nơi đất cằn cọc nghèo dinh dưỡng có khả năng tạo hỗn hợp gồm 80% đất tầng mặt + 20% phân chuồng hoai. Nơi đất có hàm lượng mùn cao có khả năng dùng 90% đất tầng mặt + 8 - 9% phân chuồng hoai + 1 – 2% Supe lân.
Làm đất:
có khả năng làm đất toàn diện hoặc làm đất cục bộ bằng phương thức cày chảo , sau đó dùng cày ngầm để cày rạch hàng sâu 40 cm , trên các rạch cày ngầm cuốc hố thường có kích tấc 30 x 30 x 30 cm.
Lấp hố và bón lót:
Trồng theo phương thức quảng canh cho việc lấp hố phải được hoàn tất trước khi trồng 7 – 10 ngày. Đối với rừng trồng thâm canh , phân bón lót chính yếu là vô cơ và phân vi sinh. Bởi vậy việc bón lót phải được tiến hành song song với việc lấp hố. Sau đó phải trồng ngay để tránh việc phân bị rửa trôi. Tề theo loại đất và điều kiện ở từng vùng có khả năng bón các loại phân và lượng phân khác nhau. Thường bón phân khoảng 100 – 150 g NPK/hố. Với đất có độ pH nhỏ hơn 4 , 5 nên bón thêm vôi bột. Nếu dùng phân chuồng có khả năng bón 0 , 5 – 2 kg/hố , dùng phân xanh có khả năng bón 3 – 5 kg/hố. Khi trồng phải bón phân trong hố cho thật đều.
Mật độ trồng:
Tùy theo mục tiêu trồng và điều kiện thâm canh mà tuyển trạch mật độ trồng cho thích hợp. Trồng thâm canh cung cấp gỗ nguyên liệu giấy thường mật độ từ 1.600 – 2.000 cây/ha , nhưng thích hợp nhất là mật độ 1.660 cây/ha , cự ly 3 x 2 m ( hàng cách hàng 3 m , cây cách cây 2 m ).
Thời vụ trồng rừng:
Vùng miền Đông nam bộ thường trồng vào tháng 5 – 6. Tề theo điều kiện khí hậu từng nơi và sự đổi thay thời tiết từng năm mà chọn thời điểm trồng vào thời kì đầu mùa mưa.
Trồng rừng:
Khi thời tiết bắt đầu có mưa và mưa đã ẩm đất , chọn những ngày râm mát hoặc có mưa nhỏ để trồng trọt. Trước khi đặt cây vào hố phải đập tơi đất trong hố , đảo đều phân bón lót và lấp đất thêm cho đầy hố. Cuốc một lỗ sâu khoảng 10 – 15 cm giữa hố , dùng dao rạch và tháo bỏ bầu trước khi trồng. Đặt cây thẳng đứng vào hố sao cho mặt trên của bầu đất thấp hơn miệng hố 1 – 2 cm , dùng tay lấp đất bột và ấn chặt xung quanh bầu. Dùng cuốc vun đất xung quanh đầy vào gốc cây.
chăm nom và quản lý canh gác rừng:
Chăm sóc: cây non mới trồng còn yếu ớt chưa quen với môi trường mới , một số cây có khả năng bị chết nên sau khi trồng 3 – 4 tuần phải tiến hành chăm nom lần 1 , chính yếu là vun gốc và trồng dặm. Cây con trồng dặm phải là cây trồng chính được dự trữ ở vườn ươm , hoàn toàn khoẻ mạnh , không bị cụt ngọn và không bị sâu bệnh , sức sinh trưởng tốt. Cũng cần thay thế ngay những cây còn sống nhưng có sức sinh trưởng kém. Chăm nom lần 2 được thực hiện vào giữa mùa mưa , vì bấy chừ cỏ dại có khả năng sinh trưởng rất nhanh lấn át cây trồng. Lần 3 được thực hiện vào đầu mùa khô nhằm loại trừ cỏ dại , dây leo và cây bụi xâm lấn , công việc này còn Hữu ý nghĩa phòng chống cháy. Song song tiến hành tỉa nhánh để giữ lại tiết diện thoát hơi nước qua bề mặt lá trong mùa khô.
Năm thứ hai cũng chăm nom ba lần: lần 1 vào đầu mùa mưa , lần 2 vào giữa mùa mưa và lần 3 vào đầu mùa khô. Lần 1 chính yếu là phát dọn thực bì , dọn cỏ , xới xáo và vun gốc. Loại phân dùng để bón thúc là phân hoá học và phân vi sinh. Thời gian bón thúc vào đầu mùa mưa. Lượng phân bón thúc như bón lót. Cách bón: rắc đều phân xung quanh gốc cây , cách gốc cây một khoảng đúng bằng bán kính của tán cây , sau đó xới xáo cho phân nháo nhào trong lớp đất mặt. Ở những nơi địa hình cho phép có khả năng dùng cày chảo để cày chăm nom giữa hai hàng cây. Lần thứ hai và lần thứ ba chăm sóc na ná như năm thứ nhất.
Năm thứ ba: chăm sóc 2 lần: lần 1 vào đầu mùa mưa , lần 2 vào đầu mùa khô. Chăm sóc lần 1 na ná như lần 1 năm thứ 2 , nếu có hoàn cảnh lượng phân bón thúc có xác xuất tăng từ 1 , 2 – 1 , 5 lần so với khi bón lót. Lần hai cũng chăm sóc na ná như lần 3 của năm thứ hai.
Năm thứ tư: chỉ chăm sóc một lần vào cuối mùa mưa hoặc đầu mùa khô. Nghề nghiệp cốt yếu là phát dọn thực bì , cây leo , cây bụi áp bức , trỉa cành nhánh , xáo xới quanh gốc cây theo hình chiếu của tán cây , phòng ngừa cháy rừng....
Tác giả: KS. Lê Dự.